Bài 2: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới

Cùng tìm hiểu việc Đổi mới tư duy về hệ thống chính trị và mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới; Đánh giá sự thực hiện đường lối thông qua nội dung bài giảng Lịch sử Đảng: Bài 2 Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới dưới đây nhé!

Bài 2: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới

1. Đổi mới tư duy về hệ thống chính trị

Việc không sử dụng khái niệm "hệ thống chuyên chính vô sản" và sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị" là kết quả của bước đổi mới tư duy chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện ở các vấn đề như:

Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trước hết là đổi mới hệ thống chính trị.

Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định dường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tê - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây đựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Như vậy, việc sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị" đã phản ánh và ssáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và về động lực chủ yếu phất triển đất nước trong giai đoạn mới.

Về vấn đề này, Đại hội IX của Đảng cho rằng: "Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tô quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bàng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Động lực chủ yếu phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội".

Nhận thức trên đây là cơ sở tư tưởng, lý luận rất quan trọng để xác định bản chất dân chủ của hệ thống chính trị và đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.

Nhận thức mới này đã khắc phục tư tưởng tả khuynh cho rằng chuyên chính vô sản là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới.

Nhận thức mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong hệ thống chính trị.

2. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới

2.1 Mục tiêu và quan điểm xây dụng hệ thống chính trị

Trong đổi mới tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ "xây dựng nhà nước pháp quyền" lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Trung ương 2 khoá VII (năm 1991). Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (năm 1994) và các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII, Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và làm rõ thêm các nội dung của nó.

Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã chỉ rõ cần đổi mới chính trị, trong đó có đổi mới hệ thống chính trị.

Mục tiêu:

Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

Quan điểm:

Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hoặc thay đồi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.

Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận câu thành của hệ thống chính trị với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều của cả hệ thống để thúc đây xã hội phát triển.

2.2 Chủ trương xây dụng hệ thống chính trị

Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị:

Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đại hội X và XI đã bổ sung một số nội dung quan trọng: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, dồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc".

Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: "Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhât lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy manh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị". Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: "Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp vả pháp luật".

Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống. Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mâu chốt nhất và cũng là khó khăn nhất là đổi mới phương thức hoạt động của Đảng, khắc phục cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện, làm thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.

Trong quá trình đổi mới, Đảng luôn luôn coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt dộng của hệ thống chính trị đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vả toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Đổi mới phương thức lãnh dạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm; vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa mả là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người, của nền văn minh nhân loại, Việt Nam cần tiếp thu.

Chúng ta hiểu chế định Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước, một chế độ nhà nước. Trong lịch sử loài người chỉ có bốn kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ chức phân công quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây đựng theo năm đặc điểm sau đây:

Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.

Để việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đạt kết quả cao cần thực hiện tốt một số biện pháp lớn sau đây:

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật; tổ chức thực thi pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đổi mới quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.

Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.

​Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng.

Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.

Thực hiện tốt Luật Măt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn..., quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.

Đổi mới hoạt động của Măt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình trạng hành chính hoá, nhà nước hoá, phô trương, hình thức; nâng cao chất lượng hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiếu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

3. Đánh giá sự thực hiện đường lối

3.1 Kết quả

Thành tựu:

Hệ thống chính trị từng bước được đổi mới để phù hợp hơn với tình hình và bối cảnh phát triển đất nước, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới, đồng thời vẫn giữ được ổn định chính trị. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị được xác định ngày càng rõ hơn và được thể chế hoá thành các quy định của pháp luật. Phân định rõ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; từng bước đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đốì với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động, cơ chế phối hợp của các tổ chức trong hệ thống chính trị đã được đổi mới một bước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò của từng tổ chức. Tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước được đổi mới, bước đầu triển khai thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ và đồng thuận xã hội.

Nội dung “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” từng bước được cụ thể hoá, có những bước tiến theo hướng phân định rõ hơn chức năng, thẩm quyền, nhiệm vu, trách nhiệm của mỗi chủ thể, nâng cao hơn hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch, ý thức tuân thủ pháp luật.

Các quan điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật của Nhà nước. Tổ chức và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước có những đổi mới trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Quốc hội có những đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc hội đến hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động; làm tốt hơn chức năng lập pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ, thiết thực, hiệu quả. Vai trò và hoạt động của Chủ tịch nước được thể hiện rõ hơn. Chính phủ tiếp tục đổi mới và nâng cao hơn năng lực hành pháp, tập trung nâng cao năng lực hoạch định chính sách, quản lý vĩ mô; tổ chức, bộ máy của Chính phủ và chính quyền địa phương có những đổi mới và sắp xếp lại hợp lý hơn. Công tác điều hành, quản lý nhà nước của Chính phủ được đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. cải cách hành chính được đẩy mạnh; việc thí điểm đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương (không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường) và thí điểm tổ chức chính quyền đô thị được tập trung chỉ đạo. Thực hiện thi tuyển một số chức danh quản lý ở Trung ương và ở địa phương... Các cơ quan tư pháp đã có những đổi mới và phân định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động. Tổ chức, bộ máy của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động có hến bộ, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng oan, sai.

Hệ thống pháp luật được đổi mới, sửa đổi, bổ sung và xây dựng ngày càng đầy đủ và phù hợp hơn, nhất là về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước từng bước được nâng lên. Tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, của các cơ quan nhà nước từng bước được đổi mới; chủ trương cải cách tổng thể bộ máy nhả nước được triển khai và có những kết quả bước đầu. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước từng bước được quy định rõ hơn và triển khai thực hiện trong thực tế.

Hạn chế:

Đổi mới hệ thống chính trị có phần lúng túng, có mặt còn chậm, chưa theo kịp và đáp ứng tốt yêu cầu của những bước phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều việc thiếu đồng bộ (việc phân định chức năng giữa các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị còn những nội dung chưa rõ, chưa hợp lý; cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và của từng tổ chức nói riêng còn những điểm chưa đồng bộ và phù hợp...). Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị chậm được đổi mới. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chồng chéo nhau, ngày càng phình to, biên chế ngày càng tăng lên nhưng hiệu quả thấp; còn cứng nhắc về mô hình, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động. Thẩm quyền và trách nhiệm của từng tổ chức, từng cấp, từng ngành trong hệ thống chính trị chưa được quy định đồng bộ, chặt chẽ, còn nhiều chồng chéo và bất cập. Đổi mới tổ chức bộ máy chưa gắn với việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, với việc xác định biên chế, tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Số lượng cán bộ, công chức, nhất là số lượng hưởng phụ cấp từ ngân sách nhà nước ở xã, phường, thị trấn tăng nhanh. Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chậm được đổi mới, vẫn còn tình trạng “hành chính hóa”, “công chức hoá", "viên chức hoá”.

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc cơ bản: thượng tôn pháp luật, hoạt động thực sự dân chủ; chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Cơ chế phân công và phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước; tổ chức của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước còn có những điểm chưa hợp lý. Thẩm quyền, trách nhiệm của từng tổ chức, từng cấp, từng ngành chậm được chế định đồng bộ, chặt chẽ, vừa có tình trạng tập trung quá mức vừa có những biểu hiện phân tán, cục bộ, làm cho tổ chức, bộ máy cồng kềnh, vận hành kém hiệu lực vả hiệu quả.

Việc kiểm soát quyền lực trong hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, nhất là trong bộ máy nhà nước, chưa được chế định rõ, còn thiếu nhất quán. Cơ chế bảo vệ pháp luật và tăng cường pháp chế chưa đầy đủ, còn hạn chế.

Công tác lập pháp còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật còn nhiều tầng nấc, thiếu đồng bộ, hiệu lực chưa cao, tính công khai, minh bạch, tính khả thi, ổn đinh còn hạn chế; nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chưa phù hợp với thực tiễn. Việc thực thi pháp luật không nghiêm, kỷ cương, kỷ luật còn lỏng lẻo. Cải cách hành chính chậm, chưa đạt yêu cầu. Thủ tục hành chính rườm rà, tình trạng quan liêu, tiêu cực còn nghiêm trọng, gây phiền hà cho nhân dân, hạn chế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đang là trở lực lớn trong việc xây dựng môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, thúc đẩy đổi mới và phát triển.

Tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp còn có những mặt hạn chế. Hiệu quả thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội chưa cao. Tổ chức và cơ chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp còn có những điểm chưa được làm rõ vả quy định phù hợp, nhiều nơi hoạt động còn hình thức. Vị trí pháp lý, chức năng, quyền hạn của Chủ tịch nước có những điểm chưa được chế định rõ. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Chính phủ còn bất cập, chưa thực sự tinh gọn và hiệu quả; năng lực quản trị, quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển còn hạn chế; cơ chế quản lý liên ngành và quản lý chuyên ngành chưa được quy đinh phù hợp, đo đó đã hạn chế việc phát huy vai trò và trách nhiệm điều hành và quản lý đất nước theo luật pháp. Giữa các bộ, ngành vẫn còn một số nội dung quản lý trùng lắp hoặc phân công không rõ. Trong một số lĩnh vực, nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành và quản lý nhà nước theo lãnh thổ chưa được phân định rõ, còn vướng mắc. Việc phân công, phân quyền, phân cấp giữa bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương trên nhiều vấn đề thiếu rõ ràng và hợp lý, chưa được phân định cụ thể, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Chậm đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương; chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, tổ chức bộ máy cồng kềnh, chia cắt, phân tán, nhiều tầng nấc; biên chế ngày càng phình to; hiệu lực, hiệu quả hoạt động thấp. Việc thí điểm mô hình tổ chức chính quyền địa phương, nhất là việc không tổ chức Hội đồng nhân dân ở quận, huyện, phường triển khai kéo dài, chưa có kết luận dứt khoát, cải cách tư pháp còn có những vướng mắc, thiếu đồng bộ. Hoạt động của các cơ quan tư pháp có nhiều bất cập, chưa thật sự độc lập và còn hạn chế trong việc đáp ứng yêu cầu thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng bảo vệ công lý.

Chế độ công vụ; chế độ thủ trưởng, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu; trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước;... chậm được hoàn thiện.

3.2 Nguyên nhân

Những kết quả đạt được là do Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và chỉ đạo triển khai thực hiện. Đây là quá trình phát triển phù hợp với xu thế của thời đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.

Những hạn chế yếu kém do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trước hết, vấn đề xây dựng nền dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một Đảng cầm quyền là những vấn đề lớn, phức tạp, mới và chưa có tiền lệ. Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về xây dựng nền dân chủ, về đổi mới hệ thống chính trị và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành và cơ chế vận hành chưa được coi trọng đúng mức. Trong nhận thức lý luận, còn biểu hiện giáo điều, không sát thưc tiễn.

Việc chỉ đạo tổ chức thực hiện đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực thi dân chủ chưa được quan tâm đúng mức và kiên quyết; chưa khuyến khích mạnh mẽ và phát huy cao tính chủ động và sáng tạo của các địa phương. Trong quá trình đổi mới, còn thiếu cách nhìn tổng thể, hệ thống; một số nội dung luật pháp, cơ chế, chính sách ban hành chưa sát thực, không bảo đảm tính khả thi, có những vấn đề chưa được luận chứng đầy đủ cơ sở khoa học vả thực tiễn, còn né tránh, ngại va chạm, triển khai chậm, thiếu nhất quán, nên chủ trương và tổ chức thưc hiện đổi mới, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy không đồng bộ. Ảnh hưởng về tư duy, nội dung, phương thức và cơ chê vận hành của cơ chế cũ còn khá nặng.

Nhằm giúp các bạn sinh viên có thêm tư liệu tham khảo, eLib đã tổng hợp nội dung bài giảng Bài 2: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới và chia sẽ đến các bạn trên đây. Hy vọng tư liệu này giúp các bạn nắm bắt nội dung bài học dễ dàng hơn.

Ngày:06/10/2020 Chia sẻ bởi:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM