Bài 2: Xã hội học pháp luật

Bài giảng Bài 2: Xã hội học pháp luật có nội dung trình bày về cơ sở hình thành, khái niệm, đối tượng và nội dung cơ bản của xã hội học pháp luật. Ngoài ra, bài giảng còn nêu lên một số vấn đề về xã hội học pháp luật trong thời điểm hiện nay, mời các bạn cùng tham khảo nhé.

Bài 2: Xã hội học pháp luật

Chúng ta sẽ nghiên cứu một chuyên ngành mới của xã hội học, đó là xã hội học pháp luật. Xã hội học pháp luật là một chuyên ngành nghiên cứu pháp luật dưới góc độ xã hội học tức là chúng ta xem xét pháp luật trong tổng thế các mối quan hệ pháp luật để thấy được quá trình hình thành của pháp luật, để thấy được tính hiệu lực của pháp luật đối với xã hội, để thấy được sự phản ảnh của pháp luật đối với pháp luật (tích cực hoặc tiêu cực).

Trong quá trình nghiên cứu bài này thì chúng ta sẽ nghiên cứu pháp luật nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng. Còn cụ thể các ngành luật thì chúng ta hiện thời không nghiên cứu mà để phần việc đó cho chuyên ngành luật.

1. Cơ sở hình thành xã hội học pháp luật

Như chúng ta đã biết pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước. Lúc đó, xã hội có sự phân chia giai cấp, giai cấp thống trị nắm vai trò quản lý nhà nước.

- K.Marx và F.Engels đã cho rằng sự hình thành của pháp luật là kết quả của hoạt động có ý chí, có ý thức của giai cấp xây dựng pháp luật. Pháp luật ra đời là do ý chí của giai cấp thống trị, các giai đoạn của pháp luật là do ý chí của giai cấp thống trị. Ví dụ: Trong xã hội phong kiến (Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác), để bảo vệ nhà vua cùng dòng họ của mình và triều thần thì chế độ phong kiến có những quy định như vua và một số triều thần cao cấp cùng gia tộc được miễn trừ pháp luật, miễn tội chết. Các chế độ hình phạt đều có sự phân biệt bất bình đẳng giữa vua và dân thường.

K.Marx và F.Engels coi pháp luật thuộc loại các hiện tượng chủ quan của sự phát triển xã hội. Ở đây, các ông đã xác định rằng hoạt động có ý chí, có ý thức của giai cấp thống trị trong từng trường hợp cụ thể được quyết định bởi các điều kiện hay kết quả của đời sống xã hội đó. Không thể hiểu sự phát triển các hình thức nhà nước, các quan hệ chính trị và pháp luật từ chính nó, cũng như từ chính sự phát triển chung của tinh thần con người, sự phát triển đó có nguồn gốc sâu xa trong các điều kiện vật chất của đời sống xã hội trong sự phát triển của các quan hệ kinh tế.

- Khi tồn tại trong một xã hội vận động và phát triển, các giai cấp thống trị không thể tự mình đặt ra các luật lệ mà muốn cho các luật lệ đặt ra được tồn tại và có hiệu lực thì các luật lệ đó phải dựa trên cơ sở các quan hệ trong xã hội, nhất là các quan hệ kinh tế. Ví dụ: Khi người nông dân bỏ công ra để sản xuất ra những sản phẩm, nếu giai cấp thống trị mà không cho họ bán sản phẩm của mình thì quy định đó không phù hợp với điều kiện khách quan, nó sẽ dẫn đến những tiêu cực.

- Ở đây, nguồn gốc pháp luật từ các điều kiện vật chất khách quan nhưng nó phải có tính phổ biến trong tổng thể quan hệ của xã hội. Tính phổ biến thể hiện ở việc nó phải được đông đảo mọi người ủng hộ hoặc tuân theo các quy định đó. Ví dụ: Trong xã hội phát triển hiện nay, hình thức hôn nhân một vợ một chồng là hình thức tiến bộ nhất, phổ biến nhất nên hầu hết các nước trên thế giới đều chọn để quy định trong luật hôn nhân của nước mình.

Như vậy, các quan hệ kinh tế, vật chất của từng xã hội đó sinh ra hệ thống pháp luật tương ứng với nó. Tuy vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng cho rằng các quan hệ vật chất, các quan hệ kinh tế không trực tiếp sinh ra pháp luật mà các quan hệ pháp luật tương ứng với các quan hệ vật chất và quan hệ kinh tế đó được trung chuyển bằng cách này hay cách khác khi chúng được thể hiện trong lợi ích của giai cấp nhất định.

- Theo học thuyết Mác - Lênin, các nhu cầu cơ bản của đại bộ phận dân cư, suy cho cùng do các quan hệ sản xuất trong quá trình sản xuất quyết định là những nguyên nhân thúc đẩy cơ bản hoạt động có ý thức của họ. Các nhu cầu và lợi ích tồn tại một cách khách quan đa dạng đó được phản ảnh trong ý thức của các giai cấp, các nhóm xã hội, của các cá nhân. Chúng tác động đến ý thức của họ và suy cho cùng quyết định ý chí của họ, chính ở đó quyết định khách quan quá trình hình thành ý thức và thể hiện ý chí của con người.

- Nguồn trực tiếp của các hoạt động của ý chí của con người là các nhu cầu, lợi ích đã được ý thức dưới dạng động cơ thúc đẩy sự thể hiện ý chí ra bên ngoài trong hoạt động sống của họ. Do đó, hoạt động đưa ý chí của giai cấp thống trị lên thành luật là một quá trình nhận thức các lợi ích nhất định của giai cấp đó.

Bởi vậy, khía cạnh ý chí có ý nghĩa rất to lớn đối với việc giải thích vấn đề bản chất của pháp luật: Chính trong hoạt động có ý chí hướng đến việc xây dựng các quy phạm pháp luật lợi ích tồn tại một cách khách quan đã được nhận thức của giai cấp thống trị được phản ảnh một cách trực tiếp.

- Để bảo vệ lợi ích nhất định cần phải nhận thức được lợi ích đó. Do vậy có thể và cần phải coi trọng toàn bộ hệ thống pháp luật thực định như là sản phẩm của ý thức. Không phải ý thức con người làm cơ sở cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ tồn tại (ý thức không quyết định nội dung của pháp luật) mà ý thức là hình thức tiếp nhận sự phản ánh lợi ích đó trong đầu của con người được quyết định bởi trạng thái ý thức xã hội (tâm lý xã hội) trong thời đại đó. Nếu không tiếp nhận sự lĩnh hội trạng thái ý thức xã hội thì chúng ta hoàn toàn không thể giải thích cho chính mình về lịch sử pháp luật.

- Ý chí giai cấp tự mình không sinh ra pháp luật, chính nó đã tự bị quyết định bởi nguyên nhân khác. Chính vì vậy cần phải làm sáng tỏ cái nguồn trực tiếp hình thành ý chí xây dựng pháp luật của giai cấp thống trị. Về vấn đề này, K.Marx và F.Engels viết: “Những quan hệ hiện thực đó hoàn toàn không phải do chính quyền lực nhà nước tạo ra mà ngược lại chính những quan hệ đó là lực lượng tạo ra chính quyền lực nhà nước. Không kể cái điều kiện là những cá nhân thống trị trong điều kiện có những quan hệ đó phải tổ chức quyền lực của mình dưới hình thức nhà nước họ phải mang lại cho ý chí của mình, cái ý chí do các quan hệ nhất định đó quyết định, một biểu hiện chung dưới hình thức ý chí của nhà nước, dưới hình thức luật, một biểu hiện mà nông dân, lực lượng bị những quan hệ giai cấp đó quyết định... biểu hiện của ý chí ấy, cái ý chí do lợi ích chung của họ quyết định là luật”.

- Những lợi ích khách quan khi đã được phản ánh trong ý thức của giai cấp thì chúng thúc đẩy giai cấp đó thực hiện những hoạt động có ý chí để đạt được những mục đích nhất định do họ đã xác định trước. Do vậy, ý chí được hình thành phù hợp với ý thức của giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân tồn tại một cách khách quan. Phạm trù lợi ích thể hiện với tư cách là nhân tố liên kết một cách khách quan giữa ý chí và các điều kiện vật chất bởi vì lợi ích thể hiện trực tiếp địa vị vật chất và địa vị xã hội của các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong xã hội.

Từ đây có thể khẳng định rằng ý chí của giai cấp đã được đưa lên thành luật được quyết định bởi lợi ích tồn tại một cách khách quan đó khi đã được nhận thức trở thành cơ sở hình thành ý chí lập pháp chung của giai cấp đó. Như vậy, ý chí là sự thể hiện của các lợi ích khách quan của giai cấp thống trị, là kết quả của sự phản ánh có ý thức các lợi ích đó trong pháp luật. Do vậy, trong thượng tầng pháp lý ý nghĩa của lợi ích không chỉ thề hiện ở chỗ là các lợi ích nhất định của giai cấp là khách thể được pháp luật bảo vệ nói chung và của việc thực hiện quyền chủ thể nói riêng, mà còn ở chỗ các lợi ích đó quyết định ý chí giai cấp, ý chí xã hội, ý chí nhà nước, trong đó có pháp luật.

- Tuy nhiên, khi đề cập đến pháp luật tư sản K.Marx và F.Engels viết: “Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đưa lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Như vậy, pháp luật tư sản chỉ là sự thể hiện những ý chí, tư tưởng của lợi ích của giai cấp tư sản mà quên đi những điều kiện lợi ích khách quan của xã hội làm cho cán cân phát triển của xã hội lệch đi một hướng đó là phát triển chủ nghĩa bóc lột, phát triển của giai cấp tư sản. Ví dụ: Pháp luật tư sản dùng từ “khách quan”, “cạnh tranh ngang nhau” để nói về sự xâm nhập, giành nhau thương trường và điều này, tất nhiên những tập đoàn tư sản sẽ dễ dàng bóp chết các cơ sở sản xuất nhỏ.

- Tóm lại, cơ sở của việc hình thành pháp luật là:

  • Sự hình thành pháp luật ban đầu từ những nhu cầu cơ bản của đại bộ phận dân cư, suy cho cùng là do các quan hệ sản xuất trong quá trình sản xuất quyết định, là những nguyên nhân thúc đẩy hoạt động có ý thức của giai cấp xây dựng pháp luật. Các nhu cầu và lợi ích tồn tại một cách khách quan đa dạng đó được phản ảnh trong ý thức của các giai cấp, của các nhóm xã hội, của các cá nhân. Chúng tác động đến ý thức của họ xác định quá trình hình thành ý thức và sự thể hiện ý chí của con người.
  • Ý thức không quyết định nội dung pháp luật mà ý thức là hình thức tiếp nhận, sự phản ảnh nhận thức đó trong đầu của con người.
  • Ý thức giai cấp tự mình không sinh ra pháp luật, mà chính nó bị quyết định bởi nguyên nhân khác, đó là các quan hệ hiện thực khách quan.
  • Biểu hiện của ý chí ấy, cái ý chí do lợi ích chung của họ quyết định là luật.
  • Pháp luật được giai cấp thống trị sử dụng để khẳng định và bảo vệ các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích cơ bản của giai cấp.

2. Khái niệm xã hội học pháp luật

Xã hội học pháp luật là một lĩnh vực xã hội học nghiên cứu bản chất xã hội của pháp luật, chức năng và cơ chế hoạt động của pháp luật, hiệu quả của tư pháp trên các cấp độ khác nhau trong một xã hội nhất định.

- Cũng như nhiều chuyên ngành khác của xã hội học, như xã hội học nông thôn, đô thị, gia đình... thì xã hội học pháp luật cũng là một lĩnh vực chuyên biệt của xã hội học.

Ví dụ: Xã hội học nông thôn nghiên cứu những con người trong cộng đồng làng xã thì xã hội học pháp luật nghiên cứu con người hoặc các nhóm người trong việc áp dụng, tuân theo pháp luật khi xử sự trong xã hội.

Một bạn sinh viên trong lớp, nếu xét ở góc độ gia đình thì chúng ta xem xét bạn ấy là con thứ mấy trong gia đình, bạn đã làm gì giúp đỡ gia đình chưa... còn nếu xét bạn ấy ở góc độ xã hội học pháp luật thì ta xét bạn ấy đã thành niên, được quyền đãng ký kết hôn, có phải thực hiện nghĩa vụ quân sự không? Và có thể nhân rộng ra là các nhóm bạn.

- Xã hội học pháp luật nghiên cứu bản chất, chức năng và cơ chế hoạt động của pháp luật các vấn đề này đều có mối liên hệ mật thiết với bản chất của nhà nước. Bản chất của nhà nước quyết định bản chất của pháp luật. Nhưng xã hội học pháp luật không làm công tác nghiên cứu cụ thể bản chất của pháp luật mà công việc này là của các ngành luật học. Xã hội học pháp luật chỉ nghiên cứu bản chất pháp luật trong mối liên hệ với xã hội.

- Hiệu quả của tư pháp tức là hiệu lực thực tế của pháp luật trong xã hội, tức là sự phản hồi của người dân đối với công tác quản lý của giai cấp thống trị. Đồng thời, nó cũng đánh giá năng lực quản lý, năng lực lãnh đạo của giai cấp thống trị. Hiệu quả khi không đạt được như mong muốn thì nó sẽ đem lại nhiều hậu quả tiêu cực như làm mất lòng tin, làm mất sự quyền uy đối với người dân. Điều đó đòi hỏi khi ban hành văn bản pháp luật cần phải xem xét mọi mặt, nhất là tính hiệu lực của nó.

3. Đối tượng của xã hội học pháp luật

Xã hội học pháp luật xác định cho mình một đối tượng riêng, mang tính đặc thù để phân biệt với các đối tượng của các ngành khoa học khác.

Về cơ bản, đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật là:

- Xã hội học pháp luật nghiên cứu cơ chế chuyển hóa các nhân tố xã hội thành những quy phạm pháp luật. 

  • Nhân tố xã hội học pháp luật rất đa dạng và phức tạp. Đó có thể là nhân tố trong các lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, chính trị, văn hoá... và tính chất, bản chất của mỗi nhân tố cũng khác nhau. Ví dụ: Vấn đề cạnh tranh trong kinh doanh sẽ khác với vấn đề cạnh tranh về quyền lực chính trị. Mục tiêu của kinh doanh chủ yếu là lợi nhuận, họ hướng đến thị trường có thể mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Còn mục tiêu của chính trị là vị thế chính trị, họ có thể sử dụng kinh tế để làm phương tiện, nhưng mục đích không phải khi nào cũng là lợi nhuận.
  • Chính sự đa dạng, phức tạp đặc thù của các nhân tố xã hội mà khi chuyển hoá chúng thành quy phạm pháp luật (các quy tắc xừ sự chung) thì cần phải xem xét đến bản chất, quy luật của từng nhân tố xã hội đề ra những quy phạm phù hợp. Ví dụ: Bản chất của lưu thông giao thông là an toàn, thuận tiện, tiết kiệm thì các quy phạm pháp luật giao thông phải phù hợp. Mọi phương tiện khi lưu thông phải tuân thủ hệ thống biển báo tín hiệu giao thông để đảm bảo an toàn.
  • Không phải mọi nhân tố xã hội đều được chuyển hoá thành quy phạm pháp luật. Xã hội học pháp luật cân xem xét những nhân tố nào có thể được chuyển hoá thành quy phạm pháp luật và nhân tố nào không cần. Ví dụ: Có những quy tắc lễ hội tại các làng xã thì sẽ do tập tục, hương ước của làng xã quy định. Việc chuyển hoá các nhân tố xã hội thành pháp luật phụ thuộc vào quy mô, tính phổ biến, bản chất của nhân tố xã hội đó. Đối với những nhân tố mang tính phức tạp cao, cần phải có những quy tắc xử sự chung thì nó cần phải được chuyển hoá thành quy phạm pháp luật hoặc là tính phổ biến, tính quy mô của nó. Ví dụ: Trong vấn đề hợp đồng thì nó rất phức tạp do nhiều loại hợp đồng, hậu quả của hợp đồng cũng rất lớn nên cần phải có những quy định về từng loại hợp đồng để mọi người đều thống nhất trong vấn đề ký kết hợp đồng và giải quyết hậu quả của hợp đồng.
  • Việc chuyển hoá các nhân tố xã hội này cần phải tôn trọng bản chất của các nhân tố, tôn trọng quy luật của các nhân tố. Ví dụ: Quy luật trong kinh doanh là hướng đến lợi nhuận. Vì vậy, quy phạm pháp luật trong kinh doanh cần đảm bảo tính lợi nhuận (tiêu chí hàng đầu).

- Đối tượng nghiên cứu thứ hai của xã hội học pháp luật là sự hoạt động của quy phạm pháp luật ấy trong xã hội.

  • Khi các nhân tố xã hội được chuyển hoá thành quy phạm pháp luật thì cũng cần phải có những đảm bảo đê quy phạm đó được vận hành. Các quy phạm pháp luật trong sự vận hành thì cần phải có những biện pháp chế tài cưỡng chế để mọi người tuân theo. Nhưng nếu lấy chế tài là tiêu chí tiên quyết trong quá trình hoạt động của quy phạm pháp luật thì quy phạm pháp luật đó sẽ không tồn tại lâu dài được, nhất là trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
  • Quy phạm pháp luật bản thân nó phải tự sống, tức là nó phải phù hợp với những quy luật phát triển của xã hội. Nó phải được mọi người tự nguyên tuân theo. Nếu một lúc nào đó quy phạm pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn nữa thì nó sẽ bị thay thế bằng một quy phạm pháp luật khác.

Như vậy, đối tượng của xã hội học pháp luật là nghiên cứu các cơ chế chuyển hoá các nhân tố xã hội thành những quy phạm pháp luật những sự hoạt động của những quy phạm pháp luật ấy trong xã hội diễn ra như thể nào.

4. Nội dung cơ bản của xã hội học pháp luật

4.1 Tính hiệu quả của pháp luật

Tính hiệu quả của pháp luật có lẽ là vấn đề phức tạp nhất của khoa học pháp lý. Tính hiệu quả của pháp luật về thực chất bao hàm toàn bộ các vấn đề từ xây dựng pháp luật, các chức năng của pháp luật đến sự thực hiện pháp luật.

Pháp luật là công cụ quản lý nhà nước của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Vậy trước hết nếu lợi ích của giai cấp thống trị không đồng nhất với lợi ích của đa số nhân dân thì các quy định pháp luật do giai cấp thống trị đưa ra sẽ không nhận được sự hưởng ứng của đa số nhân dân. Như vậy, trước hết hiệu quả của pháp luật phụ thuộc vào bản chất của giai cấp thống trị.

Ví dụ: Giai cấp bóc lột thực dân và phong kiến tại Việt Nam đưa ra các qui định tăng sưu tăng thuế nhằm trục lợi nhanh chóng đã bị quần chúng nhân dân phản kháng kịch liệt.

  • Hiệu quả của pháp luật còn phụ thuộc vào các điều kiện xã hội. Để đạt được hiệu quả thì các qui định pháp luật phải phù hợp với các chuẩn mực văn hoá, chính trị, đạo đức...

Ví dụ: Pháp luật về hôn nhân gia đình phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức về hôn nhân gia đình trong xã hội phương Đông.

  • Pháp luật là kiến trúc trượng tầng, do đó pháp luật sẽ do kinh tế (cơ sở hạ tầng) qui định. Pháp luật hình thành phù hợp với các lợi ích kinh tế.
  • Tính hiệu quả của pháp luật phải mang tính lâu dài, bền vững, khi xây dựng pháp luật phải lường trước những biến đổi của xã hội. Hay nói cách khác, pháp luật phải có tính dự liệu cao. Một qui định pháp luật đưa ra không chỉ tồn tại, phù hợp với hiện tại mà nó phải mang tính ổn định cao, phải điều chỉnh được vấn đề kể cả khi có biến động về kinh tế, chính trị... Hiệu quả của pháp luật càng cao thì tính ổn định càng cao và ngược lại.

4.2 Tính không hiệu quả của pháp luật

Khi một qui phạm được đưa vào thực tế cuộc sống có khi nó sẽ nhận được những phản ứng tiêu cực từ đại đa số nhân dân, đó là những phản kháng mạnh mẽ. Đó là những hậu quả tiêu cực của pháp luật.

Tính không hiệu quả của pháp luật được qui định bởi những yếu tố ngược lại với tính hiệu quả của pháp luật.

Các qui định pháp luật không được xây dựng trên những qui tắc xử sự chung của nhân dân mà nó được xây dựng trên ý chí ích kỷ của giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích tư lợi của giai cấp thống trị, trái với lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân.

Lợi ích của pháp luật được xây dựng không xem xét đến các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội. Không phù hợp với sự phát triển của xã hội. Khi đó các qui định pháp luật sẽ bị “chết đi” khi nó được đưa vào áp dụng. Ở đây, xã hội đã đào thải nó. Nếu giai cấp thống trị trong trường hợp này cố tình áp dụng các biện pháp cưỡng chế, đàn áp để cho qui định pháp luật được “sống” thì nó lại càng bộc lộ rõ hơn các mặt tiêu cực của mình. Khi đó hậu quả lại càng nặng nề hơn.

5. Một số vấn đề về xã hội học pháp luật

5.1 Ý thức pháp luật

Ý thức pháp luật là việc chấp hành pháp luật của nhân dân. Trong xã hội, ý thức chấp hành pháp luật của các bộ phận dân cư không giống nhau, do có sự khác nhau về trình độ, giới tính, tôn giáo, lứa tuổi...

  • Lứa tuổi thanh thiếu niên là lứa tuổi có ý thức chấp hành pháp luật thấp nhất so với các lứa tuổi khác. Ở lứa tuổi này do nhiều nguyên nhân như đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, do trình độ nhận thức còn non nớt khi lại tự mình tham gia các mối quan hệ trong xã hội.
  • Nữ giới thì có ý thức pháp luật cao hơn nam giới.
  • Những người có địa vị xã hội cao, điều kiện kinh tế khá giả, trình độ học vấn cao thì ý thức pháp luật cao hơn so với nhóm ngược lại.

5.2 Tăng cường pháp chế

Đây là vấn đề mà mọi xã hội đều phải quan tâm trong quá trình phát triển của mình. Tăng cường pháp chế tức là tăng tính hiệu lực của pháp luật. Đảm bảo pháp luật là công cụ của nhà nước dùng để quản lý đất nước.

Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nước ta thì vấn đề tăng cường pháp chế là một vấn đề vô cùng cấp bách và quan trọng. Chúng ta không thể chỉ quản lí bằng cách thuyết phục, nêu gương mà phải có một khung pháp lý hoàn chỉnh.

  • Để tăng cường được pháp chế thì cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan, ban ngành khác nhau trong quá trình xây dựng cũng như thực thi pháp luật.
  • Cần kết hợp nghiên cứu xã hội bằng các biện pháp xã hội để biết được nhu cầu cũng như mong muốn của đại bộ phận dân cư trước khi ban hành một qui định pháp luật. Đảm bảo được tính chính xác của ngôn từ, đảm bảo được tính hiệu lực khi thực thi.
  • Cần có sự thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các cấp, giữa các văn bản qui phạm pháp luật khác nhau của các ngành, tránh sự chồng chéo nhau. 

Trên đây là nội dung bài giảng Xã hội học đại cương Bài 2: Xã hội học pháp luật được eLib tổng hợp lại nhằm giúp các bạn sinh viên có thêm tư liệu tham khảo. Hy vọng đây sẽ là tư liệu giúp các bạn nắm bắt nội dung bài học dễ dàng hơn.

Ngày:26/11/2020 Chia sẻ bởi:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM