Soạn bài Tổng kết phần văn (tiếp theo) Ngữ văn 8 đầy đủ

Bài soạn Tổng kết phần văn (tiếp theo) dưới đây nhằm giúp các em củng cố và hệ thống hóa kiến thức về phần văn đã được học trong chương trình Ngữ văn 8 học kì 2. Mời các em cùng tham khảo nhé!

Soạn bài Tổng kết phần văn (tiếp theo) Ngữ văn 8 đầy đủ

1. Soạn câu 1 trang 144 SGK Ngữ văn 8 đầy đủ

- Văn nghị luận thường hướng đến phân tích những vấn đề đang cần được giải quyết trong cuộc sống hoặc là phân tích về ý nghĩa của một tác phẩm văn học, đây được xem là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng một quan điểm nào đó. Muốn thế, văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ dẫn chứng thuyết phục.

- Những tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống thì mới có ý nghĩa.

- Văn nghị luận trung đại và hiện đại có nhiều nét khác nhau:

+ Hình thức của văn nghị luận trung đại rất đa dạng và phong phú, thường được cố định ở một số thể loại như chiếu, hịch, cáo, tấu... 

+ Về nội dung:

  • Văn nghị luận trung đại thường bàn tới những vấn đề to lớn, quan hệ tới quốc kế, dân an.
  • Văn nghị luận hiện đại có đề tài rộng hơn, phong phú hơn. Những vấn đề đời thường cũng được đưa ra đề nghị luận. Chẳng hạn “Cần tạo ra thói quen tốt trong xã hội”, “Hai biển hồ”.

2. Soạn câu 2 trang 144 SGK Ngữ văn 8 đầy đủ

Hãy chứng minh các văn bản nghị luận kể trên đều được viết có lí, có tình, có chứng cứ, nên đều có sức thuyết phục cao:

(1) "Thiên đô chiếu" của Lí Công Uẩn:

-  Mở đầu bằng cách viện dẫn sử sách Trung Quốc nói về việc các vua đời xưa đã từng có những cuộc dời đô.

- Sự viện dẫn này nói về những sự lựa chọn dời đô đã xảy ra trong lịch sử. Việc dời đô ngày nay của nhà vua cũng là chuyện thường tình.

(2) “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn:

- Có thể thấy đoạn mở đầu, tác giả cho hàng loạt các dẫn chứng cụ thể nổi danh trong lịch sử Trung Hoa từ xa tới gần là để chứng minh cho “Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước”.

- Tác giả đã thể hiện lòng yêu nước sâu sắc bằng cách đưa ra những dẫn chứng nhằm chứng minh cho sự ngang tàn, bạo ngược của giặc và để chứng minh cho sự ngạo mạn của bọn sứ giả nhà Nguyên, tác giả vừa dùng dẫn chứng có miêu tả, bày tỏ thái độ căm hận ở trong những dẫn chứng đó “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”...

- Chỉ riêng việc dùng hình thức vật hóa, gọi lũ giặc là cú diều là dê chó đã cho thấy tình cảm của người viết bộc lộ trong việc đưa dẫn chứng vào bài văn.

- Hịch tướng sĩ là một văn bản nghị luận rất chặt chẽ vì thế mà nó thuyết phục người đọc không những bằng tình cảm mà bằng lí trí, bằng lập luận.

(3) "Bàn luận về phép học" của Nguyễn Thiếp:

- Có lí về cái hại vô lường của lối học cầu danh lợi; cái lợi của việc học chân chính.

- Có tình ở cái hết lòng lo lắng cho sự học, cho tương lai của đất nước.

- Có chứng cứ về cái hại của lối học hình thức; cái lợi của học chân chính.

(4) "Thuế máu" của Nguyễn Ái Quốc:

- Có lí về bóc trần bản chất tàn ác của chính quyền thực dân trong việc lừa bịp để lợi dụng thuế máu của nhân dân thuộc địa phục vụ quyền lợi của chúng.

- Có tình về sự đồng cảm với những nạn nhân vô tội; lên án chủ nghĩa thực dân.

- Có chứng cứ về con số chính xác, hình ảnh cụ thể.

3. Soạn câu 3 trang 144 SGK Ngữ văn 8 đầy đủ

Những nét giống nhau và khác nhau cơ bản về nội dung tư tưởng và hình thức thể loại ở các văn bản đã cho:

- Nhìn chung đa số những tác phẩm các em đã học đều thuộc thể văn nghị luận của trung đại, loại văn này có những quy luật chặt chẽ, thời bấy giờ “Văn, sử, triết" bất phân. Do đó, không lạ gì, ta có thể coi đây là những áng văn chương bất hủ. Yếu tố nội dung là nghiêng về nhận thức lí tính nhưng yếu tố cảm xúc, yếu tố hình tượng rất đậm nét trong các văn bản này.

- Hình thức những tác phẩm này rất giàu nhạc điệu. Yếu tố biền ngẫu khiến cho những câu văn chia thành các vế nhịp nhàng và trầm bổng giàu chất thơ.

- Sự khác nhau là do nội dung tư tưởng của thế loại quy định. Có thế đọc lại các chú thích về chiếu, hịch, cáo trong sách giáo khoa để so sánh:

+ Đa số những bài chiếu đều thể hiện nội dung liên quan đến đất nước, dân tộc như những vấn đề về chính trị có ảnh hưởng tới vận mệnh của cả triều đại, đất nước, chiếu là thể văn do nhà vua dừng để ban bố mệnh lệnh. Chiếu có thế làm bằng văn vần, biền ngẫu hoặc văn xuôi, được công bố và đón nhận một cách trịnh trọng. 

+ Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lí luận sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục.

+ Thể loại cáo thường được nhà văn viết nên bằng những ngôn từ sắc bén, lập luận khoa học, có sự liên kết mạch lạc và chặt chẽ, cáo được xem là thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa và thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Cáo phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu (không có hoặc có vần, thường đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau). Cũng như hịch, cáo là thể văn có tính chất hùng biện.

4. Soạn câu 4 trang 144 SGK Ngữ văn 8 đầy đủ

- Văn bản “Nước Đại Việt ta” được trích trong Bình Ngô đại cáo là một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam khi đó bởi đoạn trích đã khẳng định được:

+ Nước ta có nền văn hiến lâu đời.

+ Có lãnh thổ riêng.

+ Phong tục riêng.

+ Có chủ quyền, có các triều đại đặt ngang hàng với các triều đại phương Bắc.

+ Có truyền thống lịch sử oanh liệt: Bất cứ kẻ xâm lược nào vào nước ta đều bị sức mạnh nhân nghĩa của chúng ta làm cho đại bại.

- Vào thời đại Nguyễn Trãi, năm yếu tố trên là một định nghĩa khá toàn diện và sâu sắc về khái niệm dân tộc.

- So với bài thơ “Sông núi nước Nam” (đã học ở lớp 7) vốn được coi là bản tuyên ngôn độc lập trên của nước nhà thì “Nước Đại Việt ta” có nhiều điểm mới:

+ Trong “Sông núi nước Nam”, tác giả khẳng định nước là của vua. Vì thế kẻ thù xâm phạm sẽ bị đánh tơi bời do ý trời không chấp nhận.

+ Với Nguyễn Trãi, khái niệm đất nước, dân tộc được quan niệm toàn diện và sâu sắc hơn. Tác giả nhấn mạnh vào nền văn hiến, vào cương vực lãnh thố tự nhiên, vào phong tục văn hóa. Vào các triều đình tiêu biểu cho từng thời kì tồn tại và phát triển của dân tộc. Điều cuối cùng, có vẻ giống “Sông núi nước Nam” là kẻ thù phải thất bại khi đến xâm lược Đại Việt. Tuy nhiên những chiến thắng ở đây là rất cụ thể, nó đã xảy ra chứ không phải sẽ xảy ra như “Sông núi nước Nam".

Ngày:13/01/2021 Chia sẻ bởi:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM