Tây Tiến Ngữ văn 12

Bài học "Tây Tiến" sẽ giúp các em hiểu rõ về hình ảnh người lính trong cuộc chiến tranh. Các anh lên đường hành quân khi tuổi đời còn quá trẻ, lên đường xếp bút nghiêng để cầm súng đánh giặc. Mặc dù khó khăn, gian khổ là vậy, nhưng tâm hồn người lính vẫn tràn đầy sự lạc quan, thơ mộng. Các em hãy cùng eLib tham khảo bài học này nhé. Chúc các em học tập thật tốt!

Tây Tiến Ngữ văn 12

1. Tìm hiểu chung

1.1. Tác giả

- Quang Dũng (1921-1988), quê ở huyện Đan Phượng – Hà Nội.

- Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh; nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ.

- Thơ Quang Dũng vừa hồn nhiên, vừa tinh tế mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng đậm chất lãng mạn.

1.2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác Tây Tiến

- Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam.

- Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng: từ Mai Châu, Châu Mộc sang Sầm Nưa rồi vòng về phía Tây tỉnh Thanh Hóa.

- Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên, sinh viên Hà Nội. Họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn lạc quan yêu đời.

- Quang Dũng làm đại đội trưởng ở đó một thời gian rồi chuyển đơn vị khác vào năm 1948. Xa đơn vị cũ không lâu, tại làng Phù Lưu Chanh vì nhớ anh em, đồng đội nên Quang Dũng đã viết bài thơ này.

- Bài thơ lúc đầu có tên gọi Nhớ Tây Tiến. Về sau tác giả bỏ chữ “nhớ” chỉ còn hai chữ Tây Tiến bởi bản thân hai chữ Tây Tiến đã bao hàm nỗi nhớ đoàn quân Tây Tiến.

b. Bố cục

Bài thơ gồm 4 đoạn:

- Đoạn 1: 14 câu đầu: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và cảnh trí hoang sơ, hùng vĩ dữ dội của miền Tây đất nước.

- Đoạn 2: 8 câu thơ tiếp theo: Những kỷ niệm đẹp của tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây đầy thơ mộng của Tổ quốc.

- Đoạn 3: Từ “Tây Tiến đoàn binh…” đến “Khúc độc hành”: Chân dung của người lính Tây Tiến.

- Đoạn 4: 4 câu thơ còn lại: Lời thề và lời hẹn ước.

2. Đọc – hiểu văn bản

2.1. Cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và cảnh trí hoang sơ, hùng vĩ

- Khơi nguồn cho mạch cảm xúc của bài thơ là nỗi nhớ. Nỗi nhớ da diết về đồng đội, về những năm tháng không thể nào quên phủ khắp bài thơ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ dường như không kìm nén nổi, “chủ thể” nhớ phải thốt lên thành tiếng gọi. Và nỗi nhớ như được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng từ láy tượng hình “chơi vơi” rất gợi cảm, tạo cảm xúc cho những dòng thơ tiếp nối với những cảnh núi cao, vực thẳm, rừng sâu xuất hiện.

a) Thiên nhiên Tây Bắc

- Theo dòng hoài niệm của nhà thơ, bức tranh thiên nhiên của núi rừng Tây Bắc hiện lên sống động

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

+ Sài Khao,Mường Lát  là những tên đất, tên làng mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua.

+ Hai chữ “sương lấp” gợi một miền đất hoang sơ, quanh năm mây mù che phủ.

+ Ba chữ “đoàn quân mỏi” gợi một cuộc hành quân dãi dầu đầy gian khổ của người lính Tây Tiến (cảm hứng hiện thực).

+ Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hoa của thiên nhiên hay con người? Chỉ biết rằng nó gợi một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả, đẩy lùi nỗi nhọc nhằn của người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân (cảm hứng lãng mạn).

- Bốn câu thơ tiếp theo được xem là tuyệt bút, là một bằng chứng thi trung hữu họa:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Người ta có thể hình dung ra một bức tranh thật kỳ vĩ với những cung bậc khác nhau qua những câu thơ trên. Đó là khung cảnh rất hoang vu và hiểm trở, là nơi hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Sự hoang vu và hiểm trở ấy được diễn tả bằng những từ ngữ rất giàu sức tạo hình như: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, cồn mây, súng ngửi trời.

+ Từ láy khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút diễn tả sự hiểm trở với những con đường quanh co, gập ghềnh, đứt đoạn của núi rừng Tây Bắc.

+ Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” như bị bẻ gẫy làm đôi, rất dứt khoát, mạnh mẽ làm cho người đọc như thấy được rất rõ chiều cao của núi, độ cao của dốc và con tim không khỏi hồi hộp vì lo sợ cho những bước chân của người lính chiến.

+ Nếu như câu thơ trước diễn tả cái “nhìn lên”, “nhìn xuống” thì câu thơ “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại diễn tả cái “nhìn ngang”. Cái nhìn này đã mang đến cho người đọc sự tận hưởng về một cảm giác nhẹ nhàng, bình lặng, giải tỏa được nỗi lo sợ cho những bước chân của người lính chiến. Câu thơ gồm toàn thanh bằng đã góp phần tích cực vào việc diễn tả cảm giác này.

+ Hình ảnh “súng ngửi trời” là một cách viết thật sáng tạo, vừa diễn tả được tầm cao của núi, cái hiểm trở mà người lính phải vượt qua, lại vừa bộc lộ được cái hóm hỉnh của người lính ngay cả khi gian khổ nhất. Núi cao tưởng chừng như ngập trong mây, mây nổi lên thành từng cồn “heo hút”. Câu thơ giúp ta hình dung được người Tây Tiến đang ở một vị trí nào đó rất cao trên đỉnh đèo nên mới có cảm giác “súng ngửi trời”.

- Bốn câu thơ có sự phối thanh rất đặc biệt. Ba câu đầu có tới 11 thanh trắc gợi cảm giác nặng nề, trúc trắc nhưng câu thơ thứ tư lại toàn thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhàng. Sự phối thanh trong đoạn thơ cũng giống như cách phối màu trong hội họa. Giữa những gam màu nóng, tác giả lại sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ. Tài năng hội họa của Quang Dũng đã được bộc lộ trong bốn câu thơ này.

- Sự giữ dội của thiên nhiên Tây Bắc còn được tác giả tiếp tục khai thác theo chiều dài của thời gian “đêm đêm” và chiều rộng của không gian “Mường Hịch”. Núi rừng Tây Bắc đâu chỉ có núi cao, vực thẳm mà còn có thác gầm, cọp dữ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

- Ngòi bút lãng mạn, tài hoa của Quang Dũng đã phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu, phóng đại, những thủ pháp đối lập để tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về sự hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc.

b) Hình ảnh người lính Tây Tiến

- Khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hình ảnh người lính Tây Tiến xuất hiện:

+ Trong cuộc hành quân gian nan vất vả, người lính Tây Tiến không thể tránh được sự mệt mỏi “đoàn quân mỏi”. Quang Dũng đã ghi lại hiện thực đó. Thậm chí không giấu giếm sự hi sinh:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

+ Người lính Tây Tiến coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Cái bi đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng.

- Trên chặng đường hành quân, người lính Tây Tiến nghỉ lại ở một bản làng và bữa cơm đầu mùa tỏa hương nếp mới đã xua tan nhọc nhằn đời lính chiến và đưa họ về với cuộc sống đời thường:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

=> Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc và hình ảnh người lính kháng chiến trong cuộc hành quân gian khổ.

2.2. Kỷ niệm đẹp của tình quân dân và cảnh sông núi miền Tây đầy thơ mộng

Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng đã đẩy lùi khung cảnh hùng vĩ núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Đó là cảnh một đêm liên hoan văn nghệ, cảnh sông nước mênh mang trong buổi chiều sương.

a) Cảnh đêm liên hoan văn nghệ

- Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc đêm liên hoan văn nghệ bắt đầu.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”

+ Chữ “bừng”: vừa diễn tả không khí tưng bừng, sôi nổi của đêm văn nghệ, vừa tỏa sáng không gian, xua đi màn đêm bóng tối.

+ Hai chữ “đuốc hoa”: chỉ ngọn đuốc thắp sáng trong đêm văn nghệ, vừa chỉ ngọn đuốc thắp sáng trong đêm tân hôn. Ý thơ thể hiện sự tinh nghịch của chàng trai Tây Tiến.

- Hình ảnh của “em” chính là trung tâm, là linh hồn của đêm văn nghệ:

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

+ Đó là cô gái dân tộc dịu dàng, duyên dáng (e ấp), trong trang phục dân tộc (xiêm áo), trong vũ điệu dân tộc “man điệu”. Vẻ đẹp của em đã thu hút sự chú ý của các chàng trai Tây Tiến.

+ Hai chữ “kìa em” biểu lộ sự ngõ ngàng đến ngạc nhiên của chàng trai Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái.

+ Âm thanh của tiếng khèn, cảnh vật và tình quân dân ấm áp đã thăng hoa cảm xúc của người nghệ sĩ: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

b) Cảnh sông nước Tây Bắc

Nếu đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc không khí say mê ngây ngất, thì cảnh sông nước Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang huyền ảo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

+ Nhà thơ không tả mà chỉ gợi. Vậy mà cảnh vẫn hiện lên thơ mộng.

+ Không gian của buổi chiều giăng mắc một màn sương – “chiều sương”.

+ Bông hoa lau như có hồn, phảng phất trong gió.

+ Bến bờ tĩnh lặng, hoang dại như thời tiền sử.

+ Bông hoa rừng không “đung đưa” mà “đong đưa” như làm duyên với cảnh, với người.

- Trên dòng sông ấy là hình ảnh một cô gái duyên dáng, uyển chuyển, khéo léo trên chiếc thuyền độc mộc, giữa dòng nước lũ. Hình ảnh đó tạo nên một vẻ đẹp lãng mạn cho bức tranh thơ mộng của núi rừng Tây Bắc.

- Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng thể hiện tập trung ở đoạn này, chất nhạc hòa quyện chất thơ. Vì thế, Xuân Diệu có lí khi cho rằng: “Đọc đoạn thơ này như ngâm nhạc trong miệng”.

=> Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên thơ mộng, duyên dáng, mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc.

2.3. Chân dung người lính Tây Tiến

Đoạn thơ khắc họa hình ảnh đoàn quân Tây Tiến vừa kiêu hùng, vừa lãng mạn, vừa bi tráng.

a) Vẻ đẹp kiêu hùng của lính Tây Tiến

- Chân dung của người lính Tây Tiến được vẽ bằng nét bút khác lạ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

+ Người lính Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn gian khổ, bệnh sốt rét hoành hành làm cho mái tóc xanh hôm nào rụng hết(không mọc tóc) và hậu quả của bệnh sốt rét rừng đã để lại làn da xanh xao như “màu lá”. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng những mái đầu không mọc tóc, màu nước da xanh như màu lá lại có vẻ đẹp kiêu dũng, oai phong của con hổ nơi rừng thiêng. Dường như họ xem thường mọi khổ ải, thiếu thốn.

- Nét độc đáo trong cách miêu tả của nhà thơ là không miêu tả cụ thể một gương mặt nào của người lính Tây Tiến mà tập trung khắc họa rõ nét mặt chung của cả đoàn quân Tây Tiến.

+ Hai chữ “đoàn binh” tạo một âm hưởng mạnh mẽ, dứt khoát còn hình ảnh “không mọc tóc” lại gợi lên nét ngang tàng của người lính Tây Tiến.

- Thơ ca kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Quang Dũng không hề che dấu những gian khổ đó nhưng ông không miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.

b) Vẻ đẹp lãng mạn

- Những chàng trai Tây Tiến không chỉ có vẻ đẹp oai hùng cuả con hổ nơi rừng thiêng mà còn có tâm hồn lãng mạn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cái nhìn nhiều chiều đã giúp nhà thơ nhìn qua cái dằn dữ mắt trừng của họ là những tâm hồn, trái tim rạo rực yêu thương. Họ chiến đấu trong điều kiện gian khổ nhưng vẫn mơ về Hà Nội. Ở đó có dáng hình của người đẹp “dáng kiều thơm”. Hình bóng người đẹp ở quê hương là động lực tinh thần thúc giục các anh cầm súng tiêu diệt kẻ thù.

c) Vẻ đẹp bi tráng

- Viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề che dấu cái bi, nhưng cái bi lại được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

+ Hình ảnh những nấm mồ rái rác nơi biên cương, viễn xứ gợi một cảm xúc bi thương.

+ Hình ảnh “đời xanh” là biểu tượng cho tuổi trẻ đặt sau chữ “chẳng tiếc” thể hiện tinh thần tự nguyện, sẵn sàng vượt lên cái chết hiến dâng cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc.

+ Người lính Tây Tiến khi chết chỉ có manh chiếu (thậm chí không có) quấn thân nhưng tác giả đã thay vào đó tầm áo bào sang trọng. Và khúc nhạc tiễn đưa anh là âm thanh gầm réo của dòng sông Mã. Sự thật bi thương vậy mà dưới ngòi bút của Quang Dũng, người lính Tây Tiến vẫn chói ngời vẻ đẹp lý tưởng và mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa.

- Tinh thần xả thân của người lính Tây Tiến được diễn đạt bằng những từ Hán Việt hết sức trang trọng: biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, độc hành… Cách nói giảm nói tránh “về đất” làm mờ đi cái bi thương rồi bị át hẳn trong cái âm thanh của dòng sông Mã. Âm thanh đó làm cho sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

=> Bằng bút pháp lãng mạn nhà thơ đã khắc họa thành công bức chân dung tượng đài bằng ngôn từ về đoàn quân Tây Tiến.

2.4. Lời thề và lời hẹn ước

- Nhớ đến Tây Tiến, tác giả nhớ đến tháng ngày đẹp đẽ, hào hùng say mê:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

+ Hình ảnh “người đi không hẹn ước” thể hiện tinh thần chung của Tây Tiến. Tinh thần ấy thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm người lính Tây Tiến.

- Xa Tây Tiến nhưng tâm hồn, tình cảm nhà thơ vẫn gửi lại nơi ấy, những nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua.

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

- Nhịp thơ chậm, giọng điệu thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng.

- Các địa danh được nói tới tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của thiên nhiên, cuộc sống con người.

=> Đoạn kết gợi lại không khí của một thời Tây Tiến một đi không trở lại.

3. Tổng kết

- Tây Tiến là một bài thơ toàn bích. Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng của đoàn quân Tây Tiến.

- Qua bài thơ, ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với đoàn quân Tây Tiến của tác giả.

- Bài thơ kết tinh nhiều sáng tạo nghệ thuật của tác giả: bút pháp tạo hình đa dạng, ngôn ngữ vừa quen thuộc, vừa độc đáo, vừa có nét cổ kính vừa mới lạ; bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng.

4. Luyện tập

Câu 1. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Gợi ý làm bài:

- Hai câu đầu: địa bàn diễn ra cuộc hành quân được khắc họa bằng bút pháp rất tạo hình (“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”). Chú ý những từ láy, các thanh trắc. Trong câu thơ đầu góp phần miêu tả cụ thể con đường hành quân qua những dốc núi quanh co, khúc khuỷu, xa thẳm. Câu thơ thứ hai tả được độ cao nơi đỉnh núi mà đoàn quân đã tới. Người đọc hình dung được khung cảnh nơi đỉnh núi cao ngất lẫn giữa những cồn mây và mũi súng sau lưng người lính đã chạm tới đỉnh trời. Độ cao của đỉnh núi còn được hình dung, cảm nhận qua cái tĩnh lặng đến heo hút của toàn bộ không gian nơi ấy.

- Câu thơ thứ ba được ngắt ra thành hai vế: “Ngàn thước lên cao/ ngàn nước xuống”, như vẽ ra con đường hành quân vượt núi cao, từ chân núi lên tới đỉnh núi rồi lại xuống núi ở phía dốc bên kia.

- Câu thứ tư mở ra một không gian xa, rộng mênh mông mang dưới tầm mắt của người lính đang ở trên cao nhìn xuống mặt đất phía dưới. Nếu ba câu trước vẽ ra cảnh không gian theo chiều cao thì câu thứ tư lại mở ra không gian theo chiều xa, rộng trên mặt đất.

- Hai câu 5, 6 diễn tả sự gian khổ, khốc liệt của cuộc hành quân qua hình ảnh người lính “Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”. Cảm hứng lãng mạn đã không đưa nhà thơ theo hướng thi vị hóa một cách dễ dãi hiện thực chiến tranh. Trái lại, ngòi bút tác giả đã khắc sâu được ấn tượng về sự gian khổ, hi sinh của người lính trong cuộc hành quân. Điều đáng chú ý nữa ở hai câu thơ này là giọng điệu và cách miêu tả sự hi sinh. Không dùng lối cường điệu, cũng không sa vào những cách miêu tả ước lệ đã quen thuộc, ở đây sự hi sinh được diễn tả bằng những chi tiết, chữ nghĩa rất thực (“Dãi dầu không bước nữa”, “Gục lên súng mũ”), nhưng cũng không dẫn đến cảm xúc bi lụy, bởi người lính đã tiếp nhận nó một cách bình thản, thậm chí nhẹ nhàng “Bỏ quên đời”. Có người cho rằng hai câu thơ này không nói về sự hi sinh của người lính. Mà chỉ miêu tả sự gian khổ, trạng thái mệt mỏi quá sức khiến một số người lính phải dừng lại dọc đường hành quân, gục lên súng mũ thiếp đi như không cần biết điều gì nữa. Dù hiểu theo cách nào thì điều nổi bật ở hai câu thơ này vẫn là sự gian khổ, khắc nghiệt của cuộc hành quân đối với người lính.

- Hai câu thơ cuối gợi tả rất ấn tượng về vẻ hoang sơ, dữ dội, bí mật của miền Tây. Chú ý các hình ảnh: “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, các từ chỉ thời gian lặp đi lặp lại: “chiều chiều”, “đêm đêm”.

Câu 2. Phân tích chất lãng mạn và bi tráng trong hình ảnh người lính Tây Tiến ở đoạn thơ từ câu 23 đến câu 30

Gợi ý làm bài:

- Chất lãng mạn thể hiện ở:

+ Ngoại hình đậm vẻ khác thường, thể hiện sụ kiêu  hùng (“không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”). +Tâm hồn lãng mạn giàu mơ mộng, khát khao hướng về vẻ đẹp hào hoa của Hà Nội (“Mắt trừng gởi mộng qua biên giới – Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”).

+ Chất lãng mạn còn ở phí khách hào hùng của tuổi trẻ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”).

- Chất bi tráng thể hiện ở:

+ Những gian khổ, thiếu thốn tột cùng và sự hi sinh của người lính. Hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương viễn xứ gợi lên cảm xúc bi thương rất đậm. Hình ảnh “áo bào thay chiếu” khi mai táng những người chiến sĩ đã hi sinh cũng gợi lên cảm xúc bi thương.

+ Nhưng cái vượt lên cái bi là cái tráng, cái hùng thể hiện ở khí phách của người lính vượt lên, xem thường mọi gian khổ, thiếu thốn và thái độ sẵn sàng, thanh thản của họ trong sự hi sinh.

5. Kết luận

Qua bài học các em cần nắm một số nội dung chính sau:

- Cảm nhận được vẻ đẹp hùng vĩ, mĩ lệ của thiên nhiên miền Tây và nét hào hoa, dũng cảm, vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ.

- Nắm được những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ, bút pháp lãng mạn, những sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ và giọng điệu.

Ngày:11/09/2020 Chia sẻ bởi:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM