Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận Ngữ văn 11

Xin gởi đến các em bài học Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận, nhằm giúp các em rèn luyện kĩ năng tóm tắt một văn bản nghị luận. eLib mời các em tham khảo bài học dưới đây nhé, chúc các em học tập tốt!

Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận Ngữ văn 11

1. Khái niệm tóm tắt văn bản nghị luận

- Là trình bày lại nội dung của văn bản đó một cách nhắn gọn theo mục đích đã định

2. Mục đích

- Sử dụng làm tài liệu để biện minh cho các quan điểm , ý kiến, mà không làm tăng quá mức dung lượng văn bản

- Thu thập ghi chép tư liệu cho bản thân

- Luyện tập năng lực đọc- hiểu, năng lực tóm lược văn bản

3. Yêu cầu

- Phản ánh trung thành tư tưởng và các luận điểm của văn bản gốc

- Ngắn gọn, súc tích

- Diễn đạt trong sáng, chặt chẽ , mạnh lạc

4. Cách tóm tắt văn bản nghị luận

4.1. Đọc, tìm hiểu nội dung, kết cấu của văn bản gốc

- Xác định vấn đề cần nghị luận: văn bản bàn về vấn đề gì?

- Căn cứ vào vị trí mạnh của văn bản:

+ Nhan đề

+ Câu chủ đề ở phần mở bài )

- Xác định hệ thống luận điểm

+ Căn cứ vào phần mở bài

+ Xác định chủ đề ( ý khái quát của văn bản) của các đoạn văn

- Xác định các luận cứ ( lưu ý câu chủ đề của đoạn , phân tích cấu tạo đoạn )

- Tìm nội dung khái quát phần kết

4.2. Viết văn bản tóm tắt

- Viết nhan đề của văn bản

- Lần lượt viết phần mở bài,thân bài, kết bài

+ Sử dụng nhiều thành phần

+ Sử dụng nhiều phương tiện liên kết

4.3. Kiểm tra và hoàn chỉnh văn bản tóm tắt

- Đọc lại văn bản tóm tắt, đối chiếu với văn bản gốc- Bổ sung sửa chữa (nếu cần)

5. Luyện tập

Câu 1. Hãy viết bản tóm tắt  Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Ngữ văn 11, tập hai).

Gợi ý làm bài:

Trong bài Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, Nguyễn An Ninh đã dùng tài nghị luận của mình để phê phán mạnh mẽ những người Việt Nam “Tây hoá”, “thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình", tưởng thế là văn minh, là cao quý.

Theo ông, những người ấy đã không hiểu rằng “chỉ có những người đã hiểu biết vững một nền văn hoá rồi mới có khả năng thưởng thức một nền văn hoá ngoại bang”. Do đó, những kẻ “Tây hoá” không hề “có được một thứ văn minh nào”.

Hơn nữa, tiếng nói luôn là sức mạnh bảo vệ nền độc lập của dân tộc và là “nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức”. Vì thế, với mọi người Việt Nam thời ấy, vứt bỏ tiếng mẹ đẻ là “đương nhiên khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi”, là đồng nghĩa với việc “từ chối sự tự do”.

Nguyễn An Ninh cũng mạnh mẽ phê phán những kẻ học đòi “Tây hoá" quay lại chê bai tiếng Việt nghèo. Bởi không phải tiếng Việt nghèo mà chính những kẻ ấy nghèo về tiếng Việt. “Phải quy lỗi cho sự bất tài của con người chứ không phải cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ”.

Tác giả không phủ nhận sự cần thiết phải biết ít nhất là một ngôn ngữ châu Âu. Nhưng ông cũng nhấn mạnh: Điều đó “hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ”; “thứ tiếng nước ngoài mà mình học phải làm giàu cho ngôn ngữ nựớc mình”.

Câu 2. Tóm tắt văn bản nghị luận sau đây :

GIÁ TRỊ CON NGƯỜI

Người ta chẳng qua là một cây sậy, cây sậy mềm yếu nhất trong tạo hoá nhưng là một cây sậy có tư tưởng.

Cần gì cả vũ trụ phải tòng hành nha umới đè bẹp cây sậy ấy ? Một chút hơi, một giọt nước cũng đủ làm chết được người. Nhưng dù vũ trụ có đè bẹp người ta, người ta so vói vũ trụ vẫn cao hơn vì khi chết thì biết rằng mình chết chứ không như vũ trụ kia, khoẻ hơn người nhiều mà không tự biết rằng mình khoẻ.

Vậy thì giá trị chúng ta là ở tư tưởng.

Ta tự cao dựa vào tư tưởng chứ đừng cậy ở không gian, thời gian là hai thứ chúng.ta không bao giờ làm đầy hay đọ kịp. Ta hãy rèn tập để biết tư tưởng cho hay, cho đúng, đó là nền tảng của nhân luân.

Tôi không căn cứ vào không gian để tìm lấy giá trị của tôi, mà tôi trông cậy vào sự quy định tư tưởng một cách hoàn toàn, dù tôi có bao nhiêu đất cát cũng chưa phải là “giàu hơn”, vì trong phạm vi không gian này, vũ trụ nuốt tôi như một điểm con, nhưng trái lại, nhờ tư tưởng, tôi quan niệm, bao trùm toàn vũ trụ.      

(Theo Pa-xcan, bản dịch của Nghiêm Toản, trong Luận văn thị phạm, Sđd)

Gợi ý làm bài:

Câu đầu tiên của bài văn nêu lên đại ý cho toàn bài: Con người yếu nhất trong tạo hoá, thế nhưng con người có tư tưởng.

Tiếp đó, tác giả đưa ra luận cứ để lần lượt chứng minh cho sự mềm yếu của con người và cái khiến cho con người mềm yếu ấy trở nên cao hon vũ trụ.

Từ đó, tác giả rút ra kết luận : “Vậy thì giá trị chúng ta là ở tư tưởng” cùng hệ quả tât yếu của kết luận trên, phải rèn tập để biết suy nghĩ cho hay, cho đúng, vì chỉ có tư tưởng, chứ không phải là đất cát, mới có thể làm cho con người trở nên giàu có, lớn lao, trong tư thế bao trùm vũ trụ.

(Theo Nghiêm Toản, Luận văn thị phạm, Sđd)

6. Kết luận

Qua bài học này các em cần nắm một số nội dung chính sau:

- Hiểu được mục đích, yêu cầu của việc tóm tắt văn bản nghị luận.

- Biết cách tóm tắt văn bản nghị luận.

- Có ý thức thực hành tóm tắt văn bản nghị luận.

Ngày:19/12/2020 Chia sẻ bởi:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM