Ôn tập phần Văn Ngữ văn 7
Nội dung bài học dưới đây nhằm giúp các em củng cố lại những kiến thức về Văn học đã học trong chương trình Ngữ văn 7. eLib đã biên soạn nội dung bài này bám sát chương trình Ngữ văn 7 SGK. Mời các em cùng tham khảo bài học dưới đây nhé. Chúc các em học tập tốt.
Mục lục nội dung
1. Nội dung bài học
Các tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ văn 7 học kì 2 là:
- Nghị luận trung đại:
+ Tinh thần yêu nước của nhân dân ta
+ Sự giàu đẹp của Tiếng Việt
+ Đức tính giản dị của Bác Hồ
+ Ý nghĩa văn chương.
- Truyện hiện đại:
+ Sống chết mặc bay
+ Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu.
- Văn bản nhật dụng:
+ Ca Huế trên sông Hương
+ Quan âm Thị Kính
2. Luyện tập
Câu 1. Chứng minh rằng Bác Hồ sống vô cùng giản dị, thanh bạch
Gợi ý làm bài:
Sinh thời, Bác Hồ thường căn dặn đồng bào, đồng chí phải biết “Cần, kiệm, liêm, chính” và chính bản thân Bác đã gương mẫu thực hiện lối sống rất mực văn minh đó. Trong đời sống hàng ngày, Người vô cùng giản dị, thanh bạch.
Với cương vị một Chủ tịch nước, Bác có quyền được hưởng những chế độ đãi ngộ đặc biệt xứng đáng với vị trí của mình. Nhưng thật lạ kỳ, dù khi cách mạng còn trong thời kỳ khó khăn, gian nan hay khi đã thành công, Bác vẫn giữ lối giản dị từ cái ăn, cái mặc, cái ở đến cách làm việc đời thường.
Bữa ăn của Bác rất thanh đạm, thường chỉ có dưa cà, mắm muối. Trong thời kì trước cách mạng, khi ở bất kỳ nơi nào Bác cùng tự trồng rau, nuôi gà để tăng gia, cải thiện bữa ăn. Sau này, cách mạng thành công, bữa cơm của Người vẫn thanh đạm như thế, có món gì ngon, Người lại mời các cô chú phục vụ lên ăn cùng. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết về Bác: “Bác thường bỏ miếng thịt gà mà ăn trọn quả cà xứ Nghệ”.
Trong cái mặc hàng ngày, Bác Hồ cũng giản dị, gần gũi với nhân dân như thế. Nhắc đến Bác, ta thường nghĩ ngay đến hình ảnh. Người trong bộ quần áo kaki trắng, đôi dép lốp cao su đã sờn và chiếc gậy ba toong.
Trong kháng chiến gian lao, vào mùa đông rét mướt, Bác được một đồng chí nước ngoài tặng một chiếc áo ấm nhưng Bác lại lấy đó làm quà tặng những người chiến sĩ ngoài chiến trường. Sau này, khi Bác đã đi xa, những gì còn lại của Người khiến lòng ta không khỏi xúc động:
“Đôi dép đơn sơ, đôi dép Bác Hồ
Bác đi khắp nẻo quê nhà Bác ơi!
Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn…”
Không chỉ vậy, những ngôi nhà Bác từng ở cũng theo Người đi vào huyền thoại. Chẳng ai có thể quên được hang Pắc Bó, núi Các Mác, suối Lênin nơi Bác ở trong những năm 1941 khi vừa về nước. Kháng chiến thành công Người lại lần lượt ở những ngôi nhà ba gian rồi nhà sàn “lộng gió thời đại” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng ca ngợi. Những ngôi nhà ấy có thể khác nhau về kiểu dáng nhưng đều chung nhau ở sự nhỏ nhắn, đơn giản. Những vật dụng trong đó cũng rất ít ỏi, ngoài những đồ đạc tôi thiết phục vụ cuộc sống và công việc của Người: chiếc giường, chiếc tủ, chiếc bàn, chiếc đèn, chiếc giá sách... cũng chỉ có một lọ hoa nhỏ để trang trí. Bác đã từng được tặng một chiếc điều hòa, các đồng chí phục vụ Bác từng rất háo hức gắn thêm vào đó một lọ nước hoa nhỏ nhưng cuối cùng Bác lại từ chối nó để tặng những người thương binh mà theo Bác là “cần nó hơn”.
Trong cách làm việc hàng ngày, Hồ Chí Minh cũng là một biểu tượng mẫu mực của sự giản dị. Bác thường tự làm những việc có khả năng để tránh phiền hà cho người khác. Nơi làm việc của Bác được sắp xếp gọn gàng để có thể tìm được những thứ mình cần một cách nhanh chóng. Chuyện kể rằng, vào một ngày mưa các cô chú phục vụ định mang cơm từ bếp lên nhà mời Bác nhưng Bác gạt đi Bác đã che ô đi từ nhà xuống bếp ăn bởi Bác đi thì một mình Bác vất vả, mang cơm lên cho Bác thì nhiều người vất vả. Tất thảy mọi người đều xúc động vô cùng…
Bác Hồ là vậy! Sự giản dị, thanh bạch trong đời sống của Người lã một tấm gương sáng cho những thế hệ người Việt chúng ta noi theo.
Câu 2. Cảm nghĩ về truyện ngắn Sống chết mặc bay
Gợi ý làm bài:
Trong truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm được xem là "bông hoa đầu mùa" của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biền ngẫu).
Nội dung truyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính của truyện là viên quan phủ. Cốt truyện gồm ba cảnh, diễn biến theo trình tự thời gian : Cảnh 1: Mưa to gió lớn, nước lũ dâng cao, đê sắp vỡ, dân chúng hối hả đắp đất giữu đê. Cảnh 2: Đám quan lại, nha lệ, lính tráng mải mê đánh tổ tôm trong đình. Cảnh 3: Vỡ đê. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phản giữa sự ăn chơi hưởng lạc của nhứng kẻ cầm quyền với nối cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó lên án gay gắt giai cấp thống trị thối nát, bất tài và vô trách nhiệm trước tài sản, tính mạng của dân nghèo, đồng thời bày tỏ mối thương cảm sâu sắc của mình trước những nối đau thương,, hoạn nạn của đồng bào.
Mở đầu thiên truyện là tình thế vô cùng nguy hiểm của khúc đê sông Nhị. Thế đê được nhà văn tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian, không gian: Gần một giờ đêm. Trời mữa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá ; khúc sông làng X thuộc Phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.
Cảnh hàng trăm nghìn con người hốt hoảng, lo lắng, tất bật... tìm mọi cách để giữ cho con đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của nước lũ được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương:... kẻ thì thuỗng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bóm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thê thảm.
Không khí căng thẳng, hãi hùng. Sự đối lập giữa sức người với sức nước đã lên tới điểm đỉnh : Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lữ cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi ! Sức người khó lòng định nỗi với sức trời ! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay ! Nguy thay ! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình ấy, lũ con dân đang chân lầm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thôi nào quan cha mẹ ở đâu?
Thưa rằng : Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm trước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vưng chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.
Ở cảnh hai này, tác giả kể chuyện viê quan phủ mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn, Giọng văn tường thuật khách quan cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mĩa mai, châm biếm và phẩn uất.
Trước nguy cơ đê bị vỡ, bậc "phụ mẫu chi dân" cũng đích thân ra "chỉ đạo" việc hộ đê, nhưng trớ trêu thay, chỗ của ngài không phải là ở giữa đám dân đen đang vất vả, lấn láp, ra sức cứu đê mà lại ở trong đình với không khí, quang cảnh thật trang nghiêm, nhàn hạ; đèn thắp sáng trưng; nha lệ kính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập, mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sê phẩy... Đặc biệt là quanh quan có đủ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Quan nhàn hạ, ung dung, không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy thì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê tất bật ngoài kia của dân phu. Dựng lên hai cảnh đối lập, tác giả có dụng ý tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm, sống chết mặc bay của bọn quan lại phong kiến đương thời.
Trên cái nền là cảnh toan chống giặc nước, chân dung "quan phụ mẫu" hiện lên rõ ràng qua nhưng nét vẽ sinh động về hình dạng, cử chỉ, lời nói và diễn biến tâm lý nhân vật. Người đọc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, tính mạng và của cải của hàng nghìn con người con người đang bị đe dọa từng giờ từng phút, vậy mà " quan phụ mẫu" vẫn điềm nhiên vui chơi, hưởng lạc. Xung quanh hắn bầy biện đủ thứ sang trọng, xa hoa: Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tia, hai bên nào ống bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, vỉ thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.
Quả là hoàn toàn trái ngược với hình ảnh:... mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít... trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê... Sự đối lập đó càng làm nổi bật tính cách ích kỉ, độc ác, vô nhân đạo của tên quan phủ và thmar cảnh của dân chúng ; đồng thời góp phần gia tăng ý nghĩa phê phán gay gắt của truyện.
Trong khi thảm họa vỡ đê khủng khiếp đang ập vào mắt dân chúng thì bọn nha lại tay chân vẫn cúc cung hầu hạ quan lớn đánh bạc. Tuy chỉ là một cuộc chơi, lại chơi khi làm nhiệm vụ đôn đốc dân phu hộ đê nhưng quan lớn vẫn giữ cái trật tự trên duois và không khí tôn nghiêm, nghi vệ như ở chốn công đường : Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bàn. Mặc cho dân tình nháo nhác, khổ sở, quan vẫn mải mê dồn hết tâm trí vào các quân bài tổ tôm. Cung cách ấy tố cáo bản chất xấu xa cùng thái độ vô trách nhiệm đến mức vô cùng nhân đạo của hắn.
Nếu ở trên mặt đê, khong khí sôi động, nhổn nháo, hối hả với công việc cứu đe thì trong đình không khí cũng rộn ràng với những lời lẽ xoay quanh ván bài đen đỏ : "Bát sách! Ăn"; "Thất văn... Phổng", lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, kkhi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng... Ngoài kia, đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy không bằng nước bài cao thấp.
Sự đam mê cờ bạc của tên quan phủ với đám nha lại duois quyền diễn ra ngay trên mặt đê, trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã nói lên sự tàn ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Những lá bài tổ tôm có một ma lực lớn đến độ nào mà khiến cho tên quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả mối hiểm nguy, chết chóc đang đe dọa sinh mạng, tài sản của bao người ? Phải ! Hắn ta đâu cần biết những điều đó vì quanh hắn lúc nào cũng có bọn tay sai mịnh nọt, hầu hạ, dạ vâng... Chúng thi nhau tỏ ra cho quan biết là: Mình vào được, nhưng không dám cố ăn kìm, rằng: Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng cố ý nhường cho quan thắng bài liên tiếp để lấy lòng quan lớn. Sau khi quan xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Có người bẩm báo là có khi đê vỡ hắn trả lời thật phũ phàng : Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài.
Thú cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri: Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hôih thì dẫu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ.
Tính cách của tên quan phủ được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ qua các cử chỉ, lời nói thật tiêu biểu. Về cử chỉ : Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc... Về lời nói: Tiếng thầy đề hỏi : Dạ bẩm bốc! Tiếng quan lớn truyền: Ừ, khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đồ đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi, thời ông cahcs cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à ? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: Ù ! Thông tôm, chi chi nảy!... Điếu, mày!
Hàng loạt hình ảnh tương phản được tác giả sử dụng rất tài tình trong đoạn văn trên : Tiếng kêu vang trời dậy đất ngoài đê tương phản với thái độ điềm nhiên hưởng lạc của tên quan phủ. Lời nói khe khẽ sợ sệt của người hầu: Bẩm, có khi đê vỡ tương phản với lời gắt của quan cùng cái cau mặt : Mặc kệ! Hình ảnh người nhà quê, mình mẩy lấm láp, áo quần ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời báo tin đê vỡ tương phản với hình ảnh quan lớn đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng : Đê vỡ rồi... thời ông cách cổ chúng mày.
Nhờ khéo léo két hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong miêu tả, kể chuyện nên tác giả truyện ngắn Sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ tàn ác và bày tỉ niềm thương cảm sâu sắc trước cảnh nghìn sâu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.
3. Kết luận
Qua bài học này các em cần nắm một số nội dung chính sau:
- Nắm được nhan đề của các tác phẩm đã học trong chương trình ngữ văn 7, nội dung cơ bản của từng cụm bài, đặc trưng cơ bản của một số thể loại và sự giàu đẹp của Tiếng Việt, thể hiện trong các văn bản đã học.
- So sánh và hệ thống hoá kiến thức.
- Đọc thuộc lòng thơ,lập bảng hệ thống phân loại.
- Có ý thức học tập thường xuyên, nghiêm túc, thấy được cái hay,cái đẹp, ý nghĩa GD trong các tác phẩm đã học.
Tham khảo thêm
- doc Tục ngữ về thiên nhiên và lao động, sản xuất Ngữ văn 7
- doc Chương trình địa phương (phần Văn và Làm văn) Ngữ văn 7
- doc Tìm hiểu chung về văn nghị luận Ngữ văn 7
- doc Tục ngữ về con người và xã hội Ngữ văn 7
- doc Rút gọn câu Ngữ văn 7
- doc Đặc điểm của văn bản nghị luận Ngữ văn 7
- doc Đề văn nghị luận và việc lập ý cho bài văn nghị luận Ngữ văn 7
- doc Tinh thần yêu nước của nhân dân ta Ngữ văn 7
- doc Câu đặc biệt Ngữ văn 7
- doc Bố cục và phương pháp lập luận trong bài văn nghị luận Ngữ văn 7
- doc Luyện tập về phương pháp lập luận trong văn nghị luận Ngữ văn 7
- doc Sự giàu đẹp của tiếng Việt Ngữ văn 7
- doc Thêm trạng ngữ cho câu Ngữ văn 7
- doc Tìm hiểu chung về phép lập luận chứng minh Ngữ văn 7
- doc Thêm trạng ngữ cho câu (tiếp theo) Ngữ văn 7
- doc Cách làm bài văn lập luận chứng minh Ngữ văn 7
- doc Luyện tập lập luận chứng minh Ngữ văn 7
- doc Đức tính giản dị của Bác Hồ Ngữ văn 7
- doc Ý nghĩa văn chương Ngữ văn 7
- doc Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động (tiếp theo) Ngữ văn 7
- doc Luyện tập viết đoạn văn chứng minh Ngữ văn 7
- doc Ôn tập văn nghị luận Ngữ văn 7
- doc Dùng cụm chủ - vị để mở rộng câu Ngữ văn 7
- doc Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích Ngữ văn 7
- doc Sống chết mặc bay Ngữ văn 7
- doc Cách làm bài văn lập luận giải thích Ngữ văn 7
- doc Luyện tập lập luận giải thích Ngữ văn 7
- doc Viết bài tập làm văn số 6 - Văn lập luận giải thích Ngữ văn 7
- doc Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu Ngữ văn 7
- doc Dùng cụm chủ - vị để mở rộng câu (tiếp theo) Ngữ văn 7
- doc Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề Ngữ văn 7
- doc Ca Huế trên sông Hương Ngữ văn 7
- doc Liệt kê Ngữ văn 7
- doc Tìm hiểu chung về văn bản hành chính Ngữ văn 7
- doc Quan Âm Thị Kính Ngữ văn 7
- doc Dấu chấm lửng và dấu chấm phẩy Ngữ văn 7
- doc Văn bản đề nghị Ngữ văn 7
- doc Dấu gạch ngang Ngữ văn 7
- doc Ôn tập phần Tiếng Việt Ngữ văn 7
- doc Văn bản báo cáo Ngữ văn 7
- doc Kiểm tra phần văn Ngữ văn 7
- doc Luyện tập làm văn bản đề nghị và báo cáo Ngữ văn 7
- doc Ôn tập phần tập làm văn Ngữ văn 7
- doc Ôn tập phần Tiếng Việt (tiếp theo) Ngữ văn 7
- doc Kiểm tra tổng hợp cuối năm Ngữ văn 7
- doc Chương trình địa phương (phần Văn và Tập làm văn) Ngữ văn 7
- doc Chương trình địa phương (phần Tiếng Việt) Ngữ văn 7