Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) Ngữ văn 9

eLib xin gửi đến các em nội dung bài Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) dưới đây nhằm giúp các em nắm được cách viết bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Mời các em cùng tham khảo nhé!

Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) Ngữ văn 9

1. Đề bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

Có thể tham khảo những đề bài sau:

- Đề 1: Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng.

- Đề 2: Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long.

- Đề 3: Phân tích và cảm nhận tác phẩm Làng - Kim Lân.

2. Các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm (tùy theo yêu cầu cụ thể của đề bài) và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.

- Thân bài: Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.

- Kết bài: Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện.

3. Luyện tập

Câu 1: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:

Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, lòng ta cứ xao xuyến, vấn vương trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân tình, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Viết về một mảng hiện thực trên miền đất Sa Pa trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, thiên truyện như muốn nói với ta rằng: Bên trong vẻ lặng lẽ của núi rừng, cuộc sống ở đây chứa bao vẻ đẹp đáng yêu, đang có không ít sự hi sinh thầm lặng. Dù được miêu tả nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng hiện lên với nét cao quý đáng khâm phục. Trong đó, anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu – nhân vật chính của tác phẩm - đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ. Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. Trong lời giới thiệu với ông hoạ sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo. Công việc hàng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm. Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông hoạ sĩ: “[..] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ: “[…] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà!”. Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn.

Sống trong hoàn cảnh như thế, sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn. Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, ở sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu, lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong lòng anh, toát lên trên nét mặt, qua từng cử chỉ. Anh biếu bác lái xe củ tam thất để mang về cho vợ bác mới ốm dậy. Anh mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ. Anh hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà” mình và hồn nhiên kể về công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Chúng ta khó có thể quên việc làm đầu tiên của anh thanh niên khi có khách lên thăm nơi ở của mình: hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết. “Anh con trai, rất tự nhiên, như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”. Củ tam thất gửi vợ bác lái xe, làn trứng, bó hoa tiễn người hoạ sĩ già, cô gái trẻ tiếp tục cuộc hành trình, đó là những kỉ niệm của một tấm lòng sốt sắng, tận tình đáng quý.

Công việc vất vả, có những đóng góp quan trọng cho đất nước như thế nhưng người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường, nhỏ bé so với bao người khác. Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sĩ già phác thảo chân dung của mình vào cuốn sổ tay. Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu cho hoạ sĩ những người đáng để vẽ hơn mình. Đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn, vất vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân toàn miền Bắc, là anh cán bộ khí tượng dưới trung tâm suốt mười một năm nay chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập một bản đồ sét. Dù còn trẻ tuổi, anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa Pa mà mình được sinh ra, lớn lên, thấm thía sự hi sinh lặng thầm của những con người ngày đêm làm việc, lo nghĩ cho đất nước.

Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực, tinh tế, bằng ngôn ngữ đối thoại sinh động, Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nới Sa Pa lặng lẽ. Chưa đầy ba mưoi phút tiếp xúc với anh thanh niên khiến người hoạ sĩ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được, khiến cô kĩ sư trẻ lòng bao cảm mến, bâng khuâng. Với truyện ngắn này, phải chăng nhà văn muốn khẳng định: Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu, hi sinh lớn lao và thầm lặng? Những con người cần mẫn, nhiệt thành như anh thanh niên ấy thật đáng trân trọng, thật đáng tin yêu.

(Quỳnh Tâm)

a. Văn bản này nghị luận về vấn đề gì? Hãy đặt nhan đề cho văn bản trên.

b. Vấn đề nghị luận được người viết triển khi bằng những luận điểm nào? Tìm những câu văn thể hiện luận điểm của bài văn.

c. Người viết đã làm như thế nào để khẳng định luận điểm? Nhận xét về những luận cứ được người viết đưa ra để làm sáng tỏ cho từng luận điểm.

Gợi ý trả lời:

a. 

- Vấn đề nghị luận của văn bản là: Văn bản nghị luận về vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.

- Đặt tên nhan đề thích hợp cho văn bản: Có thể đặt tên cho văn bản là: Con người của Sa Pa lặng lẽ hay Hình ảnh anh thanh niên làm công tác khí tượng trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, hoặc Sức sống Sa Pa…

b. Dựa vào những câu thể hiện luận điểm chính của bài văn để hình dung về hệ thống luận điểm của nội dung nghị luận:

- Luận điểm 1: Tấm lòng yêu đời, tinh thần trách nhiệm cao với công việc: Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề,... gian khổ của mình.

- Luận điểm 2: Lòng hiếu khách và sự chu đáo với mọi người: Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”... một cách chu đáo.

- Luận điểm 3: Sự khiêm tốn của anh thanh niên: Công việc vất vả, có những đóng góp quan trọng ... lại rất khiêm tốn.

c.

- Các luận điểm được triển khai qua phép phân tích và chứng minh bằng những dẫn chứng cụ thể trong tác phẩm. Người viết đã tập trung vào những chi tiết, hình ảnh đặc sắc của tác phẩm để khái quát luận điểm, chứng minh cho luận điểm.

- Những luận cứ được người viết đưa ra để làm sáng tỏ cho từng luận điểm, diễn đạt rõ ràng, làm nổi bật được vấn đề nghị luận.

Câu 2: Em hãy lập dàn ý cho bài văn nghị luận về tác phẩm "Làng" của Kim Lân.

Gợi ý trả lời:

a. Mở bài:

- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:

+ Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân.

+ Làng (1948) đã thể hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam với làng, với nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.

b. Thân bài:

- Khái quát về tác phẩm:

+ Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948 - thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

+ Nội dung cốt truyện: Ông Hai là một người vô cùng yêu quý làng quê mình vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định ở lại làng làm du kích, làm thanh niên chống giặc dù tuổi đã cao. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình ông buộc phải tản cư lên thị trấn Hiệp Hòa. Thế rồi một hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã vô cùng đau khổ. Nhưng cho đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết trong niềm tự hào.

- Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện:

+ Tình huống: Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

-> Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác với suy nghĩ về một làng quê “tinh thần cách mạng lắm” của ông.

+ Ý nghĩa của tình huống: Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật thay đổi mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai.

- Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai:

+ Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng:

  • Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre...
  • Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử.

- Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng: Ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập.

- Diễn biến tâm trạng ông Hai:

+ Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.

+ Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.

+ Khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính.

- Đặc sắc nghệ thuật:

+ Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân.

+ Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời nhân vật ông Hai (ngôi thứ 3).

+ Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động.

+ Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân mật đôi khi dí dỏm của nhân vật.

+ Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.

c. Kết bài: Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.

4. Kết luận

Sau khi học xong bài này, các em cần nắm một số nội dung chính như sau:

- Nắm vững yêu cầu đối với một bài văn nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.

- Rèn kĩ năng tìm hiểu về kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.

Ngày:16/12/2020 Chia sẻ bởi:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM