Ôn tập Phần tập làm văn Ngữ văn 9

Bài học Ôn tập phần tập làm văn Ngữ văn 9 tập 1 giúp các em hệ thống hóa kiiến thức về Tập làm văn đã học, đồng thời rèn luyện kĩ năng tổng hợp kiến thức và hiểu được mối quan hệ giữa tập làm văn - Tiếng Việt - Văn bản. eLib đã biên soạn bài học này một cách đầy đủ và chi tiết nhất, mời các em tham khảo. Chúc các em học tốt!

Ôn tập Phần tập làm văn Ngữ văn 9

1.  Vai trò vị trí, tác dụng của biện pháp nghệ thuật và miêu tả trong văn bản thuyết minh

- Thuyết minh là giúp cho người đọc, người nghe, hiểu biết về đối tượng, do đó:

+ Cần phải giải thích các thuật ngữ, các khái niệm có liên quan đến tri thức về đối tượng, giúp cho người đọc, người nghe dễ dàng hiểu biết về đối tượng.

+ Cần phải miêu tả để giúp người nghe có hứng thú khi tìm hiểu về đối tượng, tránh gây sự khô khan nhàm chán.

- Văn bản thuyết minh:

+ Trung thành với đăc điểm của đối tượng một cách khách quan, khoa học.

+ Cung cấp đầy đủ tri thức về đối tượng cho người nghe, người đọc.

2. Vai trò, vị trí và tác dụng của yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận trong văn bản tự sự

- Sự kết hợp giữa tự sự với biểu cảm và miêu tả nội tâm nhân vật, giữa tự sự với nghị luận.

- Một số nội dung mới trong văn bản tự sự như đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong tự sự, người kể chuyện và vai trò người kể chuyện trong văn bản tự sự.

- Vai trò, tác dụng đối thoain, độc thoại trong văn bản tự sự: Thể hiện rõ suy nghĩ,đặc điểm tính cách của nv, phẩm chất của nv đc thể hiện qua các hình thức giao tiếp.

- Ngôi kể trong văn bản tự sự

- Kể ở ngôi thứ nhất: người kể dễ đi sâu vào tâm tư tình cảm miêu tả được những diễn biến tinh vi phức tạp đang diễn ra trong tâm hồn nhân vật

- Kể ở ngôi thứ 3: miêu tả bao quát được các đối tượng 1 cách kquan sinh động tạo ra cái nhìn nhiều chiều, có thể kể tự do hơn bởi ng kể k bị gò ép về t/g và k/g kể.

- Hạn chế khi bộc lộ nội tâm nhân vật.

3. Luyện tập

Câu 1. Hãy đọc các đoạn văn sau và xác định tác giả đã sử dụng phương thức tự sự kết hợp với các yếu tố nào ở mỗi đoạn (miêu tả nội tâm, nghị luận, đối thoại và độc thoại,...).

Đoạn 1:

"Thực sự mẹ không lo lắng đến nỗi không ngủ được. Mẹ tin đứa con của mẹ lớn rồi. Mẹ tin vào sự chuẩn bị rất chu đáo cho con trước ngày khai trường. Còn điều gì để  lo lắng nữa đâu ! Mẹ không lo, nhưng vẫn không ngủ được. Cứ nhắm mắt lại là dường như vang bên tai tiếng đọc bài trầm bổng : "'Hằng năm, cứ vào cuối thu... Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.

(Lý Lan, Cổng trường mở ra)

Đoạn 2:

"Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng :

- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa ? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ  ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lựcđể dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!"

(Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí)

Gợi ý làm bài:

Đoạn 1: Độc thoại nội tâm.

Đoạn 2: Nghị luận.

Câu 2.  Hãy đọc các đoạn văn sau và xác định tác giả đã sử dụng phương thức tự sự kết hợp với các yếu tố nào ở mỗi đoạn (miêu tả nội tâm, nghị luận, đối thoại và độc thoại,...).   

Đoạn 1:

"Lão không hiểu tôi; tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo :

- Lão làm bộ đây ! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu : Lão vừa xin tôi một ít bả chó...

Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thẩm :

- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.

Hỡi ơi lão Hạc ! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thê làm liều như ai hết... Một người như thế ấy !... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó !... Một người nhịn ăn để tiền lại làm nia, bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng... Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư ? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn..."

(Nam Cao, Lão Hạc)

Đoạn 2:

[...] tôi cất giọng véo von :

Cái Cò, cái Vạc, cái Nông

Ba cái cùng béo; vặt lông cái nào ?

Vặt lông cái Cốc cho tao

Tao nấu, tao nướng, tao xào, tao ăn.

    Chị Cốc thoạt nghe tiếng hát từ trong đất văng vẳng lên, không hiểu như thế nào, giật nẩy hai đầu cánh, muốn bay. Đến khi định thần lại, chị mới trợn tròn mắt, giương cánh lên, như sắp đánh nhau. Chị lò dò về phía cửa hang tôi, hỏi :

- Đứa nào cạnh khoé gì tao thế? Đứa nào cạnh khoé gì tao thế?

    Tôi chui tọt ngay vào hang, lên giường nằm khểnh bắt chân chữ ngũ. Bụng nghĩ thú vị : "Mày tức thì mày cứ tức; mày ghè vỡ đầu mày ra cho nhỏ di, nhỏ đến đâu thì mày cũng không chui nổi vào tổ tao đâu !”.

(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí) 

Gợi ý làm bài:

Đoạn 1: Miêu tả nội tâm.

Đoạn 2: Độc thoại.

4. Kết luận

Qua bài học các em cần nắm một số nội dung chính sau:

- Hệ thống hóa kiến thức về Tập làm văn đã học.

- Hệ thống hóa kiến thức về Tập làm văn đã học.

- Tích hợp với tiếng Việt và văn.

- Rèn kĩ năng tổng hợp kiến thức và hiểu được mối quan hệ giữa tập làm văn - Tiếng Việt - Văn bản.

Ngày:05/10/2020 Chia sẻ bởi:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM